Vàng thế giới chốt tuần ở ngưỡng 2.333 USD/ounce, tăng khoảng 1,9% trong cả tuần. Quy đổi theo tỷ giá USD trên thị trường tự do (25.810 VND/USD), vàng thế giới đứng tại 73,41 triệu đồng/lượng (đã bao gồm thuế, phí), tăng 1,5 triệu đồng/lượng so với cuối tuần trước.
Vàng tăng giá khi số liệu mới về kinh tế Mỹ làm gia tăng khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 9 năm nay.
Báo cáo khảo sát người tiêu dùng của Đại học Michigan cho thấy chỉ số niềm tin tiêu dùng trong tháng 6 này giảm còn 65,6 điểm, giảm từ mức 69,1 điểm trong tháng 5 và thấp hơn nhiều so với dự báo 71,5 điểm mà giới chuyên gia kinh tế đưa ra trong một cuộc khảo sát của hãng tin Dow Jones.
Cùng với các báo cáo công bố trong tuần này cho thấy sự suy yếu của lạm phát và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tăng mạnh, kết quả khảo sát nói trên giúp nhà đầu tư trên thị trường vàng cải thiện hy vọng rằng đợt giảm lãi suất đầu tiên của Fed sẽ diễn ra vào tháng 9. Nếu Fed giảm lãi suất vào tháng 9, có khả năng ngân hàng trung ương này sẽ có hai đợt hạ lãi suất trong năm nay.
Theo dữ liệu từ công cụ FedWatch Tool của sàn giao dịch CME, thị trường đang đặt cược khả năng 67% Fed giảm lãi suất trong cuộc họp tháng 9.
Tuy nhiên, giá vàng đã giằng co mạnh trong tuần do sự bấp bênh trong tâm lý nhà đầu tư. Một mặt, họ hy vọng Fed sớm hạ lãi suất, nhưng mặt khác cũng lo ngại Fed phải đến tháng 12 mới bắt đầu giảm lãi suất và chỉ có 1 đợt giảm trong năm nay. Mối lo này xuất phát từ sự cứng rắn của Fed, khi giới chức Fed tuần này dự báo chỉ giảm lãi suất 1 lần trong cả năm.
Diễn biến vàng miếng SJC
Từ phiên đầu tuần 10/6 cho tới hết tuần, giá vàng miếng tại SJC và 4 ngân hàng thương mại Nhà nước hoàn toàn đứng im, trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước không điều chỉnh giá bán vàng miếng trực tiếp.
Kết thúc tuần giao dịch, vàng miếng mua vào neo ở ngưỡng 74,98-75,50 triệu đồng/lượng, giá bán đồng loạt giữ ở mức 76,98 triệu đồng/lượng – thấp nhất kể từ ngày 30/1/2024. Sự ổn định duy trì ở cả hai chiều mua – bán nên chênh lệch mua – bán cũng ổn định ở ngưỡng 1,48-2 triệu đồng.
Nếu tính trong nửa đầu tháng 6/2024, thị trường vàng miếng lại ghi nhận đà giảm sốc với biên độ giảm lên tới hơn 8 triệu đồng mỗi lượng. Cập nhật tại một số đơn vị, vàng miếng sau nửa tháng giảm khoảng 6,5-8,02 triệu đồng mỗi lượng.
Cụ thể, SJC Hồ Chí Minh chốt giá mua – bán vàng miếng ngày 15/6 tại 74,98 – 76,98 triệu đồng/lượng, giảm 7,02 triệu đồng/lượng chiều mua và 8,02 triệu đồng/lượng chiều bán so với giá mở cửa ngày đầu tháng.
Tại Bảo Tín Minh Châu, giá mua – bán cuối ngày 15/6 đứng tại 75,50 – 76,98 triệu đồng/lượng, giảm 6,5 triệu đồng/lượng chiều mua và 7,52 triệu đồng/lượng chiều bán so với mở cửa phiên 1/6.
Doji Hà nội chốt giá mua – bán trong ngày 15/6 tại 74,98 – 76,98 triệu đồng/lượng, giá mua và bán giảm lần lượt là 6,97 triệu đồng và 7,75 triệu đồng/lượng so với mở cửa phiên đầu tháng.
Chênh lệch mua – bán hiện không quá 2 triệu đồng, giảm so với mức 2,5-3 triệu đồng ngày đầu tháng. Với đà giảm như trên, nếu đầu tư vàng miếng trong nửa tháng qua, nhà đầu tư sẽ lỗ khoảng 9-10 triệu đồng mỗi lượng tùy đơn vị.
Kể từ ngày 3/6/2024, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu triển khai phương án bán vàng bình ổn, SJC và 4 ngân hàng thương mại Nhà nước tham gia bán vàng trực tiếp cho người dân với mức giá khởi điểm là 79,98 triệu đồng/lượng. Đến nay, sau 2 tuần triển khai, giá vàng đã giảm xuống còn 76,98 triệu đồng/lượng. Mức giá này hiện chỉ cao hơn giá vàng thế giới sau quy đổi 3,6 triệu đồng, giảm 1,4 triệu đồng so với cuối tuần trước và giảm khoảng 10 triệu đồng so với cuối tháng trước.
Với diễn biến đi ngang cả 1 tuần của giá vàng miếng, các chuyên gia cho rằng, có lẽ quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là muốn giữ khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới ở mức độ nào đó chứ không có ý định kéo quá sát với giá thế giới, nên việc Ngân hàng Nhà nước giữ ổn định giá vàng lúc này là phù hợp.
Theo chuyên gia, không nhất thiết kéo giá vàng trong nước bằng với thế giới bởi điều này rất tốn nguồn lực, và chênh lệch giữa vàng miếng SJC và giá vàng thế giới nên giữ ở mức 3-5 triệu đồng là phù hợp.
Sau hơn 1 tuần bán vàng bình ổn theo hình thức trực tiếp, ngày 12/6 Vietcombank đã tiên phong triển khai tiện ích đăng ký mua vàng miếng SJC trực tuyến – khách hàng đăng ký mua vàng trên website rồi tới chi nhánh ngân hàng giao dịch, nhận vàng, nhằm giải quyết tình trạng khách hàng phải xếp hàng tại các điểm bán vàng miếng SJC.
Sau Vietcombank, BIDV và Agribank mới đây cũng đã thông báo đang triển khai hình thức bán vàng trực tuyến, dự kiến bắt đầu từ đầu tuần tới.
Diễn biến giá vàng nhẫn trơn 9999 trong tuần này và nửa đầu tháng 6/2024.
Trong khi giá vàng miếng biến động phụ thuộc vào sự điều chỉnh giá bán trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước, thì mặt hàng vàng nhẫn vẫn lên/xuống theo xu hướng của giá vàng thế giới.
Vàng thế giới tăng trong tuần này, vàng nhẫn cũng ghi nhận đà tăng lên tới gần 1 triệu đồng/lượng. Kết thúc phiên cuối tuần 15/6, giá mua vàng nhẫn trên thị trường niêm yết tại ngưỡng 73,35-74,25 triệu đồng/lượng và giá bán khoảng 74,95-75,50 triệu đồng/lượng. So với giá mở cửa phiên đầu tuần 10/6, mua vào và bán ra ghi nhận đà tăng khoảng 600-800.000 đồng mỗi lượng tùy đơn vị.
Tuy nhiên, nếu so với giá mở cửa ngày đầu tháng 6, vàng nhẫn ghi nhận đà giảm khoảng 100-900.000 đồng mỗi lượng và nếu đầu tư vàng nhẫn trong nửa tháng qua sẽ lỗ khoảng 1,5-2,5 triệu đồng mỗi lượng tùy đơn vị.
Với mức giá 75,5 triệu đồng/lượng – cao nhất trên thị trường vàng nhẫn hiện tại, đang đắt hơn giá vàng thế giới sau quy đổi 2,1 triệu đồng, giảm 800.000 đồng so với cuối tuần trước.
SJC hiện giữ chênh lệch giữa vàng miếng và vàng nhẫn ở mức 2 triệu đồng, giảm 800.000 đồng so với cuối tuần trước và đã giảm gần 9 triệu đồng so với cuối tháng trước.
tygiausd.org
Mua vào | Bán ra | |
---|---|---|
USD chợ đen |
25,650 30 | 25,750 30 |
Giá đô hôm nay |
Mua vào | Bán ra | |
---|---|---|
Vàng SJC | 82,500 | 84,500 |
Vàng nhẫn | 81,500 | 82,800 |
Tỷ giá hôm nay |
||
---|---|---|
Ngoại Tệ | Mua vào | Bán Ra |
USD |
25,0840 | 25,4540 |
AUD |
16,2380 | 16,9280 |
CAD |
17,7270 | 18,4810 |
JPY |
1600 | 1700 |
EUR |
26,8480 | 28,3200 |
CHF |
28,5820 | 29,7970 |
GBP |
31,8310 | 33,1840 |
CNY |
3,4670 | 3,6140 |