Ngày 16.12, Ngân hàng Nhà nước giảm tỷ giá trung tâm 2 đồng, xuống còn 23.650 đồng/USD. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá cuối ngày 15.12 giảm 45 đồng, xuống 23.510 đồng/USD. Sau nhiều tháng không công bố giá, Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước vừa mới công bố giá mua USD ở mức 23.450 đồng và bán ra với mức 23.830 đồng. Như vậy, giá mua USD của các Ngân hàng Nhà nước cao hơn giá mua của các ngân hàng thương mại từ 50 - 90 đồng, tuy nhiên vẫn thấp hơn giá bán 200 đồng.
Các ngân hàng thương mại tiếp tục giảm giá đồng bạc xanh thêm 50 đồng, Eximbank mua vào còn 23.360 - 23.380 đồng, bán ra còn 23.620 đồng; Vietcombank còn 23.370 - 23.400 đồng chiều mua vào, bán ra 23.640 đồng... Giá đô la Mỹ trên thị trường tự do tiếp tục giảm sâu 80 đồng, xuống còn 23.975 đồng chiều mua vào và bán ra còn 24.035 đồng.
Trên thị trường quốc tế, trong phiên giao dịch Mỹ đêm 15.12, chỉ số USD-Index giảm từ mức 104,5 điểm xuống gần 103,5 điểm rồi nhanh chóng vọt lên 104,95 điểm và giảm nhẹ sau đó. Sáng 16.12, USD-Index còn 104,44 điểm, giảm 0,1 điểm.
Sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất thêm 0,5%, mới đây Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cũng đã tăng thêm lãi suất 0,5%, từ 3% lên 3,5%/năm. Đây là mức lãi suất cao nhất mà BoE áp dụng kể từ khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay. BoE khẳng định lạm phát sẽ bắt đầu hạ nhiệt mạnh kể từ giữa năm 2023 và xuống dưới mức 2% sau 2 hoặc 3 năm. Trong trường hợp áp lực lạm phát cao dai dẳng hơn dự báo, BoE sẽ có những phản ứng mạnh mẽ nếu cần thiết.
Ngoài ra Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng mới tăng thêm lãi suất 0,5%. Theo đó, lãi suất cho vay tái cấp vốn của ECB hiện tại ở mức 2,5%; lãi suất cho vay cận biên là 2,75% và lãi suất tiền gửi 2%. ECB cho biết, kể từ đầu năm 2023 sẽ cắt giảm dần mức nắm giữ trái phiếu chính phủ theo chương trình APP và cũng sẽ không tái đầu tư tất cả các chứng khoán đáo hạn. Mức độ thu hẹp đạt khoảng 15 tỉ euro mỗi tháng, kéo dài cho tới cuối quý II, sau đó sẽ được xác định lại theo thời gian. ECB dự báo áp lực lạm phát cao sẽ còn kéo dài. Lạm phát trung bình sẽ ở khoảng 8,4% trong năm 2022, hạ nhiệt còn 6,3% năm 2023; tiếp tục xuống 3,4% năm 2024 và chỉ còn tăng 2,3% năm 2025.
Vàng nhẫn ngày 5/11: So với đỉnh 21/10, giá vàng nhẫn có nơi đã giảm hơn 12 triệu/lượng
04:10 PM 05/11
Vàng miếng ngày 5/11: Chiều tăng lại 500K mỗi lượng khi giảm hơn 1 triệu đầu giờ sáng
03:35 PM 05/11
Vàng nhẫn ngày 4/11: BTMC mạnh tay giảm 1,3 triệu mỗi lượng
05:45 PM 04/11
Thời kỳ lạm phát 2% có thể sẽ không bao giờ trở lại
05:38 PM 15/12
Nhà sáng lập PYN Eltie Fund: VN-Index đã chạm đáy, có cơ hội tăng trưởng tốt trong năm 2023
03:18 PM 15/12
TTCK phiên sáng 15/12: Giằng co trên vùng giá xanh, VN-Index dừng phiên sáng tăng hơn 5 điểm
12:18 PM 15/12
Tỷ giá VND/USD phiên 15/12: TT tự do tăng giá mua và giảm giá bán, NHTM điều chỉnh không đồng nhất với xu hướng giảm chiếm ưu thế
12:03 PM 15/12
Hồi phục trở lại với mức điều chỉnh trên 2%, giá khí đốt tự nhiên giao dịch tại 6,5 USD/mmBTU
11:33 AM 15/12
Lãi cao, người dần ùn ùn gửi tiết kiệm
10:29 AM 15/12
| Mua vào | Bán ra | |
|---|---|---|
USD chợ đen |
27,770 0 | 27,870 30 |
Giá đô hôm nay |
||
| Mua vào | Bán ra | |
|---|---|---|
| Vàng SJC | 146,400 | 148,400 |
| Vàng nhẫn | 146,400 | 148,430 |
Tỷ giá hôm nay |
||
|---|---|---|
| Ngoại Tệ | Mua vào | Bán Ra |
USD |
25,0840 | 25,4540 |
AUD |
16,2380 | 16,9280 |
CAD |
17,7270 | 18,4810 |
JPY |
1600 | 1700 |
EUR |
26,8480 | 28,3200 |
CHF |
28,5820 | 29,7970 |
GBP |
31,8310 | 33,1840 |
CNY |
3,4670 | 3,6140 |